Nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong nước, nước ta đã ban hành nhiều quy định rất chặt chẽ liên quan đến Giấy phép lao động đối với người lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Ngày 03/02/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định 11/2016/NĐ-CP (“Nghị định số 11”) quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Nghị định này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/04/2016 và có nhiều nội dung mới nổi bật liên quan đến Giấy phép lao động cho người nước ngoài.
Thứ nhất, về việc xin cấp phiếu lí lịch tư pháp
Trước đây, theo Nghị định 102/2013/NĐ-CP (“Nghị định số 102”), người lao động nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam thì pháp luật vẫn yêu cầu họ phải cung cấp cả Phiếu lí lịch tư pháp tại Việt Nam và Phiếu lí lịch tư pháp cấp tại nước ngoài với điều kiện về hình thức là phải được hợp pháp hóa lãnh sự và dịch công chứng. Việc yêu cầu cung cấp phiếu lí lịch tư pháp cấp tại nước ngoài cho người lao động nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam là không cần thiết, gây nhiều khó khăn, thủ tục rườm rà khi xin cấp giấy phép lao động.
Do vậy, theo quy định mới hiện nay, đối với trường hợp người lao động nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam thì chỉ cần phiếu lý lịch tư pháp do Việt Nam cấp, quy định này đã đơn giản hơn rất nhiều so với quy định trước đây. Tuy nhiên, Nghị định số 11 vẫn chưa làm rõ về thời gian cư trú tại Việt Nam của người lao động nước ngoài trong trường hợp này. Nếu không quy định rõ vấn đề này, sẽ dẫn đến nhiều khó khăn, bất cập khi áp dụng, thậm chí là sự nhũng nhĩu, vòi vĩnh từ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thứ hai, về thời hạn cấp Giấy phép lao động
Trước đây, thời hạn để cấp giấy phép lao động theo quy định là 10 ngày làm việc. Tuy nhiên, quy định mới ban hành đã rút ngắn thời hạn giải quyết hồ sơ xin cấp giấy phép lao động giảm xuống chỉ còn 7 ngày làm việc. Quy định này một sự tiến bộ trong cải cách hành chính, khi đã phần nào góp phần đẩy nhanh các thủ tục hành chính và bắt kịp với nhịp sống, yêu cầu của xã hội.
Thứ ba, quy định rõ khái niệm về chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành
Bên cạnh những khái niệm về vị trí công việc hiện tại, Nghị định số 11 đã bổ sung thêm khái niệm đối với các vị trí khác mà người lao động nước ngoài đảm nhiệm.
Người lao động nước ngoài được xem là chuyên gia khi đáp ứng một trong hai điều kiện: Có văn bản xác nhận là chuyên gia của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp tại nước ngoài; Có bằng đại học trở lên hoặc tương đương và có ít nhất 03 năm kinh nghiệm làm việc trong chuyên ngành được đào tạo phù hợp với vị trí công việc mà người lao động nước ngoài dự kiến làm việc tại Việt Nam; trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định. Trước đây, theo Nghị định số 102, chuyên gia nước ngoài yêu cầu số năm kinh nghiệm tối thiểu là 05 năm.
Trường hợp người lao động nước ngoài được xem là nhà quản lý, giám đốc điều hành: Nhà quản lý là người quản lý doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp hoặc là người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu của cơ quan, tổ chức; Giám đốc điều hành là người đứng đầu và trực tiếp điều hành đơn vị trực thuộc cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Thứ tư, trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động
Trước đây, Nghị định số 102 chưa điều chỉnh một số đối tượng có thể xem xét để không cần phải xin giấy phép lao động khi vào Việt Nam, cụ thể: tình nguyện viên, thực tập sinh không trong diện thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập; người nước ngoài vào Việt Nam để công tác ngắn ngày,tham dự họp, kiểm toán nội bộ, người làm việc độc lập hoặc khảo sát; thương nhân vào thu mua hàng hóa ngắn ngày.
Nay, Nghị định số 11 đã bổ sung trường hợp người lao động nước ngoài làm việc tại vị trí chuyên gia, nhà quản lý, giám đốc điều hành hoặc lao động kỹ thuật có thời gian làm việc dưới 30 ngày và thời gian cộng dồn không quá 90 ngày trong 01 năm thì không cần đề nghị cấp giấy phép lao động và cũng không cần xin xác nhận của Sở Lao động Thương bình và Xã hội. Đây là một sự bổ sung cần thiết và kịp thời, đáp ứng được các vấn đề đã xảy ra trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Bởi lẽ, hiện nay, vấn đề mà các công ty đa quốc gia phải đối mặt là gửi nhân viên nước ngoài đến Việt Nam trong một thời gian ngắn để thực hiện các công việc như cung cấp đào tạo, thực hiện kiểm toán nội bộ, lắp đặt thiết bị… Rất không thực tế khi yêu cầu họ phải thực hiện thủ tục xin xác nhận không thuộc diện xin giấy phép lao động vì thủ tục hành chính rườm ra, thời gian xử lý hồ sơ lâu trong khi đó họ chỉ ở Việt Nam một vài ngày hoặc một vài tuần. Có khi nhận được chấp thuận không thuộc diện xin giấy phép lao động thì họ đã không còn làm việc tại Việt Nam.
Ngoài ra, người lao động nước ngoài lafgiaos viên, nghiên cứu sinh được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác nhận vào giảng dạy, nghiên cứu tại các cơ sở giáo dục, đào tạo tại Việt Nam; học sinh, sinh viên đang học tập tại các trường, cơ sở đào tạo ở nước ngoài có thảo thuận thực tập trong các cơ quan, doanh nghiệp tại Việt Nam; cá nhân có hộ chiếu công vụ vào Việt Nam làm việc cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội cũng được miễn giấy phép lao động.
Tuy nhiên, đối với trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động khác, người nước ngoài vẫn cần phải có giấy xác nhận của Sở Lao động Thương Binh và Xã hội trước ít nhất 7 ngày làm việc. Thời hạn xác nhận không thuộc trường hợp cấp giấy phép lao động là tối đa không quá 02 năm và theo thời hạn của một số trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, Nghị định số 11 vẫn còn bỏ ngỏ hai trường hợp còn lại. Đây là thiếu sót khi các nhà làm luật đã không đưa hai trường hợp này vào trường hợp không thuộc diện cấp giấy phép lao động. Thực tiễn hiện nay, số lượng tình nguyện viên không thuộc các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có nguyện vọng đến Việt Nam làm việc là rất lớn. Đồng thời, số lượng thương nhân nước ngoài vào Việt Nam mua bán hàng hóa với thời gian ngắn là rất lớn do những đặc thù trong hoạt động kinh doanh, nhất là những thương nhân của những nước tiếp giáp với biên giới Việt Nam. Do vậy, thiết nghĩ, các nhà làm luật nên nghiên cứu vào đưa các đối tượng này vào phạm vi điều chỉnh của pháp luật.
Thứ năm, quy định chi tiết hơn về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép lao động
Nghị định số 11 quy định chi tiết về giấy chứng nhận sức khỏe phải có giá trị trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày ký kết luận sức khỏe, và vẫn hiệu lực tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị cấp phép lao động.
Đồng thời tại Điều 10 Nghị định 11, hồ sơ đề nghị cấp giấp phép lao động phải có phiếu lý lịch tư pháp hoặc văn bản xác nhận người lao động nước ngoài không phải là người phạm tội hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự của nước ngoài cấp. Trường hợp người lao động nước ngoài đã cư trú tại Việt Nam thì chỉ cần phiếu lý lịch tư pháp do Việt Nam cấp. Các văn bản này được cấp không quá 6 tháng kể từ ngày cấp đến ngày nộp hồ sơ.
Ngoài ra cần có giấy tờ chứng minh người lao động nước ngoài là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật. Tuy nhiên Nghị định lại không quy định rõ giấy tờ chứng minh ở đây được hiểu là những loại giấy tờ nào, việc quy định chung chung như trên sẽ gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam, người lao động nước ngoài khi thực hiện nghĩa vụ chứng minh với Sở Lao động thương binh và Xã hội, trong khi đó quy định cũ trước đây tại Nghị định số 102 là chỉ cần văn bản xác nhận.
Thứ sáu, điều kiện để xin cấp lại giấy phép lao động
Nghị định số 11 đã bổ sung thêm trường hợp được quyền xin cấp lại giấy phép lao động và bỏ đi trường hợp giấy phép lao động hết hạn như trước đây, cụ thể các trường hợp sau:
+ Giấy phép lao động còn thời hạn bị mất, bị hỏng hoặc thay đổi nội dung ghi trong giấy phép lao động (trừ một số trường hợp sẽ làm theo thủ tục cấp mới)
+ Giấy phép lao động còn thời hạn ít nhất 05 ngày nhưng không quá 45 ngày.
Theo Nghị định số 102 và các văn bản hướng dẫn thi hành, pháp luật không đề cập trường hợp này. Nghị định số 11 đã quy định chặt chẽ hơn về trường hợp giấy phép lao động hết hạn. Theo đó, nếu giấy phép lao động gần hết hạn, người lao động nước ngoài còn nhu cầu làm việc tại Việt Nam và thời hạn còn ít nhất 05 ngày trước ngày hết hạn nhưng không quá 45 ngày, người sử dụng lao động phải thực hiện thủ tục xin cấp lại giấy phép lao động theo quy định.
Luật sư Trần Đức Vũ - Tháng 4 năm 2016